Trang chủ » BLOG » Kiến trúc nhà ở Việt Nam qua các thời kỳ

Kiến trúc nhà ở Việt Nam

Xuất phát từ nền nông nghiệp, Việt Nam là một quốc gia mang nhiều nét văn hóa đậm đà, đặc trưng riêng. Kiến trúc xây dựng nhà ở cũng là một trong những đặc trưng độc đáo góp phần tạo nên kho tàng văn hóa – nghệ thuật kiến trúc của dân tộc. Và phản ánh tài hoa, bản sắc của người Việt từ xưa đến nay.

Lịch sử kiến trúc nhà ở Việt Nam

Kiến trúc nhà ở Việt Nam xưa và nay

Cùng với sự phát triển của lịch sử dân tộc, mầm mống của sự tạo ra các không gian sống của con người được bắt đầu từ hơn 4000 năm nay. Lịch sử Việt Nam được tính từ thời khởi dựng đất nước, thời của vua Hùng từ trước những năm 207 TCN, với nền văn hóa Văn Lang – Âu Lạc. Với trình độ đúc đồng nổi tiếng thời kỳ văn hóa Đông Sơn.

Thời kỳ này, qua các di tích khảo cổ, đặc biệt là trên mặt trống đồng Ngọc Lũ còn ghi lại nét sinh hoạt thời xưa và những kiểu loại nhà sàn. Đó là kiểu kiến trúc nhà ở lâu đời phù hợp với điều kiện môi trường thiên nhiên của đất nước.

Dấu ấn rõ nét của kiến trúc cổ còn hiện hữu đến ngày nay phải kể đến các công trình từ thời Lý, thời Trần, thời Hồ, thời Lê, thời Tây Sơn, thời Nguyễn. Ngày nay, các di sản kiến trúc đã trải qua nhiều biến động lịch sử: chiến tranh, thời tiết nóng ẩm nên tình trạng cũng không còn được nguyên vẹn như trước.

Đặc điểm kiến trúc nhà ở Việt Nam trong các thời đại phong kiến

  • Trong các thời kỳ phong kiến ở Việt Nam cũng đã hình thành một số các đô thị cổ. Trong các đô thị thì có các thành cổ, chợ, khu thị dân và các công trình tôn giáo tín ngưỡng. Đô thị được hình thành theo quan niệm phong thủy. Cụ thể là dựa vào địa hình thiên nhiên và mối quan hệ thiên – địa – nhân. Kiến trúc nhà ở buôn bán thì hình thành kiểu nhà ống 1 tầng kèm theo 1 gác lửng. Hạ tầng đô thị được hình thành rất sơ lược.
  • Kiến trúc công trình từ cung điện đến kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng, nhà ở truyền thống…Đều có chung đặc điểm là cấu trúc theo gian, trên cơ sở của một hệ khung kết cấu gỗ chịu lực. Kích thước không gian của nhà vừa đủ cho việc sử dụng và phù hợp với tỉ lệ hoạt động của người Việt Nam. Sự khác nhau về kiến trúc truyền thống qua các triều đại là ở cấu trúc của các thể loại.
  • Từ tổng thể đến công trình kiến trúc đều không có bản vẽ thiết kế trước khi xây dựng. Phần lớn làm theo kinh nghiệm truyền miệng (là dựa trên thước tầm). Công trình được xây dựng bằng vật liệu địa phương.

Kiến trúc nhà ở Truyền thống

Việt Nam là một quốc gia nhiều dân tộc, gồm 54 dân tộc. Trong đó, dân tộc Kinh là chủ đạo chiếm 87,1%. Kiến trúc truyền thống của dân tộc Kinh là tiêu biểu cho cả nước và cho các đô thị Việt Nam. Bên cạnh kiến trúc nhà ở truyền thống của dân tộc Kinh, thì các kiểu kiến trúc dân gian của các dân tộc khác cũng làm nên bản sắc riêng của từng địa phương. Trong các kiến trúc truyền thống của các dân tộc có:

kiến trúc nhà ở Cham-pa việt nam

  • Kiến trúc nhà ở Chàm với các tháp Chàm: Các di tích của nền văn hóa Cham-pa chịu ảnh hưởng của nền văn hóa cổ trung đại Ấn Độ. Nghệ thuật kiến trúc tháp Chàm là nghệ thuật của kiến trúc xây bằng gạch với kỹ thuật và nghệ thuật đặc sắc tiêu biểu của miền Trung.
  • Ở khu vực khác nhau sẽ có các kiểu kiến trúc đại diện: Kiến trúc Khơ-me tiêu biểu của miền Đông Nam Bộ; kiên trúc của đồng bào Tây Nguyên tiêu biểu cho khu vực miền Nam Trung Bộ; kiến trúc Mường tiêu biểu ở Hòa Bình; kiến trúc của người Thái đại diện khu vực Tây Bắc; kiến trúc Tày Nùng tiểu biểu cho vùng Đông Bắc.

Phong cách kiến trúc dân tộc Kinh tiêu biểu cho cả nước

phong cách nhà mái ngói ở Việt Nam

1. Kiến trúc có ý đồ bố cục, có tính biểu tượng, ẩn dụ, hàm súc, có hình tượng nghệ thuật từ nội dung đến hình thái chứa đựng triết lý (triết học phương Đông), nghệ thuật thâm trầm, tế nhị, kín đáo nhưng sâu lắng và thâm thúy trí tuệ.

2. Kiến trúc xinh xắn, dàn trải, gắn bó, hài hòa với thiên nhiên. Không gian và hình khối kiến trúc như là một yếu tố hữu cơ của cảnh quan thiên nhiên.

3. Không gian sử dụng linh hoạt, dễ dàng biến đổi thích ứng cho các điều kiện sinh hoạt, hoạt động trong không gian kiến trúc. Có sự kết hợp khéo léo 3 loại không gian: Không gian kín, không gian bán kín – bán mở và không gian mở.

4. Tỷ lệ không gian rất gần gũi và gắn bó với hoạt động của con người. Tỷ lệ giữa các bộ phận công trình hài hòa, thống nhất.

5. Kiến trúc sư điêu khắc, trạm khắc màu sắc như một yếu tố phụ trợ tích cực tăng tính nghệ thuật cho công trình. Mặt khác là phương tiện diễn đạt ý nghĩa biểu trưng, cái thần của công trình, sử dụng các hoa văn đầy ý nghĩa biểu trưng.

6. Tính hợp lý của kết cấu, tính đơn giản, tính thống nhất điển hình và tính tiêu chuẩn thấy rõ trong bộ khung chịu lực của công trình.

7. Về ngoại hình của kiến trúc nhà ở truyền thống Việt Nam là loại có mái dốc thẳng. Đầu dốc mái có loại uốn cong với trang trí trên dốc mái, trên góc mái phong phú. Có loại hai đầu hồi thẳng mái che cho than nhà – Than nhà là hệ cột khung với hang hiên.

Đặc điểm kiến trúc nhà ở Việt Nam thời cận đại (1858 – 1945)

nhà ở cụ Bá Kiến tại Lý Nhân, Hà Nam
Kiến trúc nhà ở Việt Nam thời phong kiến

Ở thời kỳ này, với sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản châu Âu sang Đông Nam Á. Kèm theo đó là sự xâm nhập kiến trúc phương Tây vào. Các đô thị được hình thành từ thời nhà Nguyễn và trước đó đã được cải tạo theo kiểu đô thị phương Tây. Các đường phố được nắn thẳng, tạo mạng lưới đường theo kiểu ô cờ, hạ tầng kỹ thuật đường phố được hoàn thiện. Đường rộng hơn trước, có vỉa hè dành cho người đi bộ. Trên các đường phố là các thể loại công trình kiến trúc nhà ở, nhà hàng, công sở và các công trình phụ trợ phục vụ công cộng đời sống…kiến trúc phong phú về thể loại và hình thức mà trước đây chưa hề có.

Bên cạnh các kiến trúc cổ, tân cổ, kiến trúc địa phương Pháp được thực hiện mang tính áp đặt chủ yếu do các viên toàn quyền và chủ đầu tư – Tư bản Pháp chỉ đạo. Các kiến trúc truyền thống của Việt Nam vẫn được tồn tại và đổi mới trên phương diện tiếp thu những tinh hoa của kiến trúc phương Tây với kiến trúc truyền thống Việt Nam.

1. Kiến trúc nhà 1 tầng

Ở kiểu kiến trúc nhà ở 1 tầng thì sự đổi mới được bắt đầu từ hình thức bên ngoài của công trình. Kiến trúc bên trong nhà thì vẫn theo hình thức gian với các cột kèo gỗ cổ truyền. Tường vây bên ngoài được xây bằng gạch, với các hình thức sử dụng hệ cột phương Tây. Bên trên kết thúc bằng tường hoa chắn mái.

2. Kiểu kiến trúc 2-3 tầng

Xây dựng nhà 2 tầng hay 3 tầng phải áp dụng các kết cấu cột dầm, sàn bằng vật liệu bền vững. Cột gạch, dầm thép, sàn gạch rỗng hoặc vỉa gạch trên hệ thống dầm gỗ lim hay thép (thay cho cột, dầm, sàn gỗ của kiến trúc truyền thống). Hình thức bên ngoài hoàn toàn theo ngôn ngữ kiến trúc phương Tây, song sử dụng các hoa văn trang trí dân tộc.

Việc sử dụng xi măng, sắt thép, bê tông cốt thép với kỹ thuật tính toán khả năng chịu lực của nhà từ phương Tây mang đến. Đã tạo điều kiện cho kiến trúc sư Việt Nam phát triển mạnh và có cơ sở khoa học.

Xu hướng kiến trúc với kết cấu, cấu tạo các bộ phận tạo điều kiện cho việc hình thành không gian khắc phục được những điểm bất lợi của khí hậu nhiệt đới nóng ẩm. Tạo ra những bản sắc mới trong kiến trúc nhà ở Việt Nam vào những thập kỷ 30-40. Đó là khuynh hướng kiến trúc Đông Dương. Nét đặc biệt ở công trình này là sử dụng các hệ mái với các con sơn đỡ mái để che cho nóc nhà, có tầng hầm để thông thoáng chống ẩm. Sử dụng cửa hai lớp: kính và chớp. Phóng áp mái có trần nhà, không gian dưới mái chỉ để cho thoáng và có cửa thoát khí. Tất cả các khía cạnh trên được bắt nguồn từ kinh nghiệm chống nóng trong kiến trúc nhà ở truyền thống Việt Nam.

Tỷ lệ không gian kiến trúc công trình đáp ứng nhu cầu sử dụng tốt. Độ cao phòng vừa đủ để đảm bảo về thể tích khối không khí, độ thoáng mát và tính thẩm mỹ. Xử lý kiến trúc mặt đứng theo phong cách kiến trúc Tân cổ điển châu Âu. Song sự xuất hiện các yếu tố thông hơi thoáng gió ở trên, dưới cửa sổ, dưới mái hiên, ban công, lô gia…sử dụng các hoa văn trang trí dân tộc. Tạo ra truyền thống mới, bản sắc kiến trúc nhà ở mới ở Việt Nam.

Đặc điểm kiến trúc nhà ở Việt Nam từ thời hiện đại (1945-1980)

Trong giai đoạn này, kiến trúc nhà ở Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển kiểu kiến trúc truyền thống giai đoạn trước. Tuy nhiên, lại có sự khác biệt giữa hai miền Nam và miền Bắc:

  • Ở miền Bắc: do chính sách tiết kiệm, tiêu chuẩn trong kiến trúc có hạn hẹp. Đã phần nào ảnh hưởng đến khai thác đặc trưng và tìm tòi sáng tạo trong mọi lĩnh vực tạo ra tiện nghi thuận lợi nhất cho môi trường sống và làm việc. Phương châm trong kiến trúc nhà là tiện dụng, kinh tế, bền vững và mỹ quan trong điều kiện có thể.
  • Ở miền Nam: kiến trúc nhà ở được kế thừa phát huy từ giá trị sẵn có từ trước. Về hình thức thì chú trọng về ngoại, nội thất và ưu tiên các biện pháp chắn nắng, độ thông thoáng cho ngôi nhà.

Đặc điểm kiến trúc nhà ở từ thập niên 80 đến nay

Ở giai đoạn này kiến trúc có nhiều khuynh hướng khác nhau:

  • Khuynh hướng phục cổ, nhái cổ: Sử dụng các hệ thức cột cổ điển châu Âu, hoa văn trang trí, ban công bụng chửa…(trong kiến trúc nhà dân tự xây).
  • Khuyên hướng hiện đại: đây là khuynh hướng đi tìm cái đẹp trong các hình khối và sử dụng sự tương phản hình khối; sử dụng các mảng tường kính với cửa nhôm. Ở kiểu kiến trúc nhà ở hiện đại thường sử dụng các hệ thống điều hòa nhân tạo. Cửa thì sử dụng dạng cửa chớp, cửa pano, hệ thống tắm chắn nắng.
  • Khuynh hướng Hậu hiện đại tiếp tục sự phát triển của khuynh hướng hiện đại. Song nặng nề về giải quyết hình khối, tổng thể; sử dụng một số mô tiếp điển hình của kiến trúc truyền thống cũ, tạo mối liên hệ với truyền thống, với lịch sử. Tạo mối liên hệ không gian bên trong và bên ngoài.
  • Quy mô nổi trội của các công trình kiến trúc do các chủ đầu tư nước ngoài vào các loại hình: văn phòng, khách sạn, ngân hàng, siêu thị. Tạo ra những sắc thái mới trong kiến trúc đô thị.